Cách đây 79 năm, ngày 22/12/1944, tại tỉnh Cao Bằng, từ 34 chiến sĩ được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân nuôi dưỡng, ủng hộ và giúp đỡ, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã phát triển không ngừng; chưa đầy một năm sau khi thành lập đã cùng toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, giành độc lập dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính”, Quân đội nhân dân Việt Nam được sự ủng hộ, giúp đỡ, sát cánh chiến đấu, phục vụ chiến đấu của nhân dân, nên càng đánh càng mạnh, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hàng chục vạn dân công đã xẻ núi, san đồi, bảo đảm giao thông; đồng thời tiến hành vận chuyển khối lượng lớn lương thực, thực phẩm, vũ khí cho chiến dịch bằng xe đạp thồ, mảng nứa, xe thô sơ, ngựa thồ... Với sự giúp đỡ tận tình, hiệu quả của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Điện Biên Phủ đã thể hiện rõ bản chất, truyền thống, vượt mọi khó khăn, gian khổ, người trước ngã xuống, người sau xông lên “vì nhân dân quên mình”, giành giật với địch từng mét chiến hào, từng ngọn đồi, đánh thắng từng trận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được vận dụng một cách sáng tạo, với nhiều hình thức phong phú, phù hợp với điều kiện đất nước tạm thời bị chia làm hai miền. Ở miền Bắc, đông đảo các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, chi viện cho chiến trường miền Nam với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”...
Trên chiến trường miền Nam, mặc dù chính quyền tay sai và đế quốc Mỹ dùng mọi thủ đoạn chia rẽ giữa nhân dân với bộ đội, du kích, như: Dồn dân lập ấp chiến lược, đàn áp phong trào cách mạng… nhưng mối quan hệ đoàn kết quân dân vẫn không ngừng được củng cố, ngày càng gắn bó. Hàng nghìn, hàng vạn những người mẹ, người chị không quản ngại gian khổ, hiểm nguy, thậm chí có thể hy sinh tính mạng để nuôi giấu bộ đội, làm giao liên, y tá… Đó là những hình ảnh sáng đẹp về tình cảm quân dân. Trong lòng nhân dân, được nhân dân che chở, giúp đỡ, nuôi dưỡng, bộ đội ta luôn phát huy truyền thống “Trung với nước, hiếu với dân”, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường với ý chí quyết chiến, quyết thắng, bảo vệ nhân dân trong từng trận chống càn, đánh bại các chiến dịch quy mô lớn của địch, giữ vững vùng giải phóng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.
Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống xâm lược, giành độc lập, mối quan hệ đoàn kết quân dân thực sự là nguồn sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được nhân dân nuôi dưỡng đùm bọc, sát cánh chiến đấu, Quân đội nhân dân luôn thể hiện rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh vũ trang cách mạng, chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Vì nhân dân, đó là động lực mạnh mẽ thôi thúc lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ không quản ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, quyết tâm chiến đấu giành độc lập dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân vẫn luôn là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân thương yêu, mến phục. Cùng với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, Quân đội nhân dân luôn hoàn thành tốt chức năng của “đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ quân đội có mặt ở những nơi nguy hiểm nhất, dầm mình trong mưa bão để cứu giúp nhân dân, ứng phó với thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, làm ngời sáng thêm bản chất, truyền thống tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Các đơn vị quân đội tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới; tổ chức tốt các đợt hành quân dã ngoại kết hợp làm công tác dân vận; tuyên truyền, vận động nhân dân đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ quan hệ đoàn kết gắn bó quân dân của các thế lực thù địch.
Tự hào về chiến công vĩ đại và truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam, có thể khẳng định Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 34 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dânlà dịp để chúng ta nhìn lại chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta. Những chiến công oanh liệt mà Quân đội nhân dân Việt Nam giành được là biểu tượng sáng ngời về sức mạnh vô địch của mối quan hệ đoàn kết quân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây cũng là dịp phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắcTổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thái Văn Khởi