Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Thứ sáu - 02/09/2022 19:13
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu được hun đúc qua mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng này trở thành kim chỉ nam trong mọi hoạt động của Đảng ta, nhất là trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Bác Hồ với các anh hùng và dũng sĩ miền Nam, năm 1969. Ảnh: TL
Bác Hồ với các anh hùng và dũng sĩ miền Nam, năm 1969. Ảnh: TL
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp quần chúng nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của toàn dân tộc. Đây là một trong những tư tưởng và phương pháp cốt lõi của Người về tiến hành cách mạng ở Việt Nam. Nếu nói đoàn kết là sự tập hợp, thống nhất của một nhóm người cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó, thì đến Hồ Chí Minh, khái niệm này đã được mở rộng ra thành đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Người: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, cụm từ “đoàn kết” được Người nhắc tới hơn hai nghìn lần và cụm từ “đại đoàn kết” được nhắc tới hơn tám mươi lần. Điều đó nói lên sự quan tâm của Người đối với vấn đề đoàn kết, đại đoàn kết ở mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh lịch sử. Đoàn kết vốn là truyền thống quý báu của dân tộc ta, điều này đã được chứng minh qua lịch sử mấy nghìn năm chống giặc giữ nước. Vì vậy, Người luôn kêu gọi mọi người, nhất là cán bộ phải luôn trân trọng truyền thống ấy và “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Trong khái niệm đại đoàn kết, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của nhân dân và sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Người nói rằng “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; nhân dân có nội hàm rất rộng, để chỉ tất cả người Việt Nam nói chung. Do đó, đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ sức mạnh của họ: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ. Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong tiến trình ấy, trên tinh thần “lấy dân làm gốc”, Đảng ta đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Khi nước nhà được thống nhất, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước mà nòng cốt là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong tập hợp lực lượng nhân dân tham gia các phong trào đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống tội phạm... Các phong trào này được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, không chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng mà còn góp phần làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, “chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đạt được kết quả này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đoàn kết, gắng sức chung lòng, cùng nhau vượt qua vô vàn khó khăn, thách thức để đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Vì vậy, đại đoàn kết dân tộc và phát huy sức mạnh của nó đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ta chỉ rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức; do đó, “đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống…”. Và đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục trở thành một trong những giải pháp hàng đầu để đưa nước ta vượt qua những khó khăn, thách thức hiện nay. Để làm được điều này, Đảng ta đã đề một số giải pháp cụ thể trong thời gian tới:
Một là, tiếp tục xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Hai là, tiếp tục phát huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Xây dựng cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức để nhân dân được phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh mang lại lợi ích cho mình và cho đất nước. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với công việc, “nói đi đôi với làm”, thực sự là công bộc của nhân dân. Đồng thời, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Ba là, thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện những chính sách đáp ứng yêu cầu phát triển vùng dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới. Tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp; phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn. Tiếp tục tổ chức tốt Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; các phong trào thi đua “Đoàn kết sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, hội nhập quốc tế”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”... bảo đảm thiết thực, hiệu quả, lan tỏa, sát hợp với thực tế. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; phát huy ý chí tự cường dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn vững chắc trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Minh Vy

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây