Thời gian thực hiện từ năm 2023 đến năm 2025, với 30 ha mô hình nuôi sò huyết trong ao/đầm dưới tán rừng ngập mặn, quy mô 5 héc ta/mô hình.
Mục tiêu của mô hình là tạo ra năng suất nuôi bình quân đạt ≥ 4 tấn/héc ta và cỡ sò huyết thương phẩm đạt cỡ ≤ 100 con/kg. Đồng thời, hướng đến hình thành chuỗi liên kết tiêu thụ hơn 90% số hộ tham gia được ký hợp đồng thu mua sản phẩm. Từ đó, hiệu quả kinh tế tăng từ 10 đến 15% so với ngoài mô hình, gắn với tuyên truyền công tác trồng và bảo vệ rừng phòng hộ cho người dân trong vùng dự án và nhân rộng mô hình từ 10 - 15% so với quy mô dự án được phê duyệt.
Ông Nguyễn Văn Chiến, ngụ xã Thuận Hòa, huyện An Minh, một trong những hộ gia đình tham gia mô hình trình diễn, chia sẻ: “Trước đây, bà con nuôi sò theo cách truyền thống, mật độ thưa, nguồn nước tốt nên con sò phát triển rất ổn định. Thời gian gần đây, nguồn nước có nhiều biến động nên hiệu quả suy giảm. Trung tâm Khuyến nông cũng đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho bà con về kỹ thuật nuôi, sử dụng men vi sinh, sử dụng thức ăn, đạt hiệu quả 70 - 80%. Hy vọng Trung tâm Khuyến nông tỉnh sẽ tiếp tục có những chính sách hỗ trợ về trình diễn mô hình nuôi sò huyết để bà con có thể phát huy được lợi thế tán rừng trong nuôi trồng thủy sản”.
Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Toản, Trưởng phòng Khuyến ngư - Nuôi trồng thủy hải sản, Trung tâm Khuyến nông tỉnh, cho biết: “Qua theo dõi các mô hình được triển khai, chỉ tiêu cơ bản đã đáp ứng được mục tiêu của Dự án về nâng cao năng suất nuôi sò huyết dưới tán rừng. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ giải pháp kỹ thuật cụ thể như tăng cường nguồn thức ăn, tăng mật độ nuôi, sò phát triển tốt đúng theo mục tiêu và dự kiến thu hoạch sẽ đạt được 100 con/kg. Đây là kết quả tích cực thể hiện ưu việt của mô hình so với cách nuôi trước đây”.
Bên cạnh đó, Trung tâm Khuyến nông tỉnh cũng đã phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức tập huấn cho người tham gia xây dựng mô hình trình diễn và những người có nhu cầu học tập, giúp cho bà con áp dụng biện pháp kỹ thuật nuôi sò huyết dưới tán rừng phòng hộ ven biển, quản lý môi trường, dịch bệnh, kỹ năng ghi chép sổ nhật ký mô hình ở gia đình, hướng dẫn thời điểm phù hợp để thả giống nuôi, khả năng thích nghi và sử dụng các chế phẩm vi sinh hữu ích trong nguồn thức ăn để sò phát triển nhanh.
Với diện tích rừng phòng hộ khá lớn, tỉnh Kiên Giang có tiềm năng rất lớn trong việc nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi sò huyết nói riêng. Vì vậy, mô hình này rất cần ngành chuyên môn và chính quyền địa phương nhân rộng, để tạo thêm việc làm, góp phần cải thiện đời sống của nhiều hộ dân được giao khoán rừng phòng hộ thuộc khu vực ven biển. Đồng thời, viêc khai thác nguồn lợi từ nuôi sò huyết sẽ gắn kết với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng ngày càng tốt hơn trong thời gian tới.
Thúy Tài